Ta lại quay ngược thời gian trở về thời kì cuối kỷ Phấn Trắng , nơi những tên khủng long khổng lồ ngự trị như loài T-rex danh tiếng , Triceratops mạnh mẽ hay Ankylosaurus cục mịch , khó gần . Trên bầu trời , Quetzalcoatlus là kẻ săn mồi thống trị hay dưới đại dương nơi Hainosaurus tung hoành ngang dọc gieo rắc kinh hoàng cho các loài sinh vật biển và vùng đầm lầy , nơi Sarcosuchus và Deinosuchus ngư trị và đem đến sự chết chóc . Nhưng lần này , tôi sẽ ko giới thiệu 1 loài khủng long , bò sát biển hay thằn lằn bay và cũng chẳng phải 1 loài cá sấu . Loài tôi sắp nói đến đây có thể khiến các bạn ngạc nhiên bởi kích cỡ của chúng so với hậu duệ ngày nay . 1 loài lưỡng cư săn mồi - Beelzebufo , 1 loài ếch khổng lồ được mệnh danh " Ếch địa ngục" .
Beelzebufo là 1 loài ếch tiền sử khổng lồ nhất từng được biết đến được tìm thấy năm 2007 . Giới truyền thống đặc cho chúng những biệt danh như " Êch quỷ " , " The Devil Toad " hay " Ếch địa ngục " . Các hóa thạch của chúng được tìm thấy tại tầng đá hình thành Maevarano ở đảo Madagascar , Có niên đại khoảng 70 triệu năm ( giai đoạn Maastrichtian cuối kỷ Phấn Trắng ) . Tên của chúng được ghép từ "Beelzebub" - 1 vị thần Semitic trong thần thoại và "Bufo" trong tiếng Latinh nghĩa là "con cóc". Tên loài Ampinga mang ý nghĩa "lá chắn" trong ngôn ngữ Malagasy ( 1 ngôn ngữ của Madagascar ) .
Hình ảnh Beelzebufo ăn 1 con theropod
Loài ếch này có các hóa thạch được khai quật cho thấy 1 cá thể dài 41cm và nặng 4kg , lớn hơn bật kì loài ếch nào sống trên trái đất .Ngay cả loài Goliath ( dài 32 cm ) . Xương hộp sọ của nó cho thấy có phần nhăn nheo nhô ra ngoài , điều này giúp sọ chúng có thể chịu tác động lớn từ bên ngoài . Mặc dù các hóa thạch được tìm thấy ở Madagascar , điều đó vẫn còn gắn liền với Ấn Độ , đã tách ra khỏi Bờ biển Somalia vào giai đoạn đầu tiên của Kỷ jura muộn . Nhìn bề ngoài trông nó rất giống người họ hàng gần nhất con sống là họ Ceratophryinae hay "cóc sừng" ở Nam Mỹ , đã có loài phát triển lên đến 15cm chiều dài . Như tây Gondwana (Nam mỹ) đi từ đông Gondwana , từ phía bắc và lan rộng xuống phía nam , Nam Đại Tây Dương đã mở rộng khoảng 110 triệu năm trước và cô lập các loài lưỡng cư ở hai bên . Tổ tiên chung cuối cùng của Beelzebufo và Ceratophryinae có lẽ đã tồn tại ở đây trước khi nước biển dâng và cô lập Madagascar khỏi Ấn độ . Trong 1 thời gian dài ko có sự liên quan các hóa thạch với nhau giữa hai vùng . Richard Lane , giám đốc chương trình Phòng Khoa học Trái đất của NSF cho biết :" sự xuất hiện của loài Beelzebufo Madagascar và họ hàng của chúng tồn tại ở Nam Mỹ cho thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng lục địa Gondwana đã tách rời từ thời kì đầu của Kỷ Phấn trắng .
1 loài họ hàng Nam Mỹ của Beelzebufo
Beelzebufo và loài Ễnh Ương Mỹ
Trong các loài Ếch có sừng từng sống thì Beelzebufo là 1 loài có miệng rộng + với kích thước lớn cho phép chúng có thể săn được những con mồi lớn ngay cả những con khủng long vị thành niên nhỏ như các loài Raptor ( chủ yếu vẫn là chuột , ếch nhỏ và chim ). Chúng ko phải là 1 loài ưa nước như Ếch , chúng thích sống nơi khô cằn hơn như loài cóc nhà của Việt Nam .
Các mảnh hóa thạch đầu tiên được tìm thấy năm 1993 bởi David W. Krause của Đại học Stony Brook New York , nhưng phải mất 14 năm , các nhà khoa học là Susan E. Evans, Marc EH Jones, và Krause lắp ráp đủ dữ liệu và đưa ra công bố cho viện hàn lâm khoa học quốc gia và đặc tên cho loài mới , đăng trên tạp chí của học viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kì . Khoảng 75 mảnh hóa thạch được tìm thấy và các nhà nghiên cứu đã có thể tái tạo lại các bộ phận của bộ xương con vật , bao gồm 1 hộp sọ gần như hoàn chỉnh .
các hóa thạch và hình tái hiện cấu trúc của Beelzebufo
Loài mới nên thông tin còn khá ít , mai mốt nếu có thêm mình sẽ update sau
Beelzebufo là 1 loài ếch tiền sử khổng lồ nhất từng được biết đến được tìm thấy năm 2007 . Giới truyền thống đặc cho chúng những biệt danh như " Êch quỷ " , " The Devil Toad " hay " Ếch địa ngục " . Các hóa thạch của chúng được tìm thấy tại tầng đá hình thành Maevarano ở đảo Madagascar , Có niên đại khoảng 70 triệu năm ( giai đoạn Maastrichtian cuối kỷ Phấn Trắng ) . Tên của chúng được ghép từ "Beelzebub" - 1 vị thần Semitic trong thần thoại và "Bufo" trong tiếng Latinh nghĩa là "con cóc". Tên loài Ampinga mang ý nghĩa "lá chắn" trong ngôn ngữ Malagasy ( 1 ngôn ngữ của Madagascar ) .
Hình ảnh Beelzebufo ăn 1 con theropod
Loài ếch này có các hóa thạch được khai quật cho thấy 1 cá thể dài 41cm và nặng 4kg , lớn hơn bật kì loài ếch nào sống trên trái đất .Ngay cả loài Goliath ( dài 32 cm ) . Xương hộp sọ của nó cho thấy có phần nhăn nheo nhô ra ngoài , điều này giúp sọ chúng có thể chịu tác động lớn từ bên ngoài . Mặc dù các hóa thạch được tìm thấy ở Madagascar , điều đó vẫn còn gắn liền với Ấn Độ , đã tách ra khỏi Bờ biển Somalia vào giai đoạn đầu tiên của Kỷ jura muộn . Nhìn bề ngoài trông nó rất giống người họ hàng gần nhất con sống là họ Ceratophryinae hay "cóc sừng" ở Nam Mỹ , đã có loài phát triển lên đến 15cm chiều dài . Như tây Gondwana (Nam mỹ) đi từ đông Gondwana , từ phía bắc và lan rộng xuống phía nam , Nam Đại Tây Dương đã mở rộng khoảng 110 triệu năm trước và cô lập các loài lưỡng cư ở hai bên . Tổ tiên chung cuối cùng của Beelzebufo và Ceratophryinae có lẽ đã tồn tại ở đây trước khi nước biển dâng và cô lập Madagascar khỏi Ấn độ . Trong 1 thời gian dài ko có sự liên quan các hóa thạch với nhau giữa hai vùng . Richard Lane , giám đốc chương trình Phòng Khoa học Trái đất của NSF cho biết :" sự xuất hiện của loài Beelzebufo Madagascar và họ hàng của chúng tồn tại ở Nam Mỹ cho thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng lục địa Gondwana đã tách rời từ thời kì đầu của Kỷ Phấn trắng .
1 loài họ hàng Nam Mỹ của Beelzebufo
Beelzebufo và loài Ễnh Ương Mỹ
Trong các loài Ếch có sừng từng sống thì Beelzebufo là 1 loài có miệng rộng + với kích thước lớn cho phép chúng có thể săn được những con mồi lớn ngay cả những con khủng long vị thành niên nhỏ như các loài Raptor ( chủ yếu vẫn là chuột , ếch nhỏ và chim ). Chúng ko phải là 1 loài ưa nước như Ếch , chúng thích sống nơi khô cằn hơn như loài cóc nhà của Việt Nam .
Các mảnh hóa thạch đầu tiên được tìm thấy năm 1993 bởi David W. Krause của Đại học Stony Brook New York , nhưng phải mất 14 năm , các nhà khoa học là Susan E. Evans, Marc EH Jones, và Krause lắp ráp đủ dữ liệu và đưa ra công bố cho viện hàn lâm khoa học quốc gia và đặc tên cho loài mới , đăng trên tạp chí của học viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kì . Khoảng 75 mảnh hóa thạch được tìm thấy và các nhà nghiên cứu đã có thể tái tạo lại các bộ phận của bộ xương con vật , bao gồm 1 hộp sọ gần như hoàn chỉnh .
các hóa thạch và hình tái hiện cấu trúc của Beelzebufo
Loài mới nên thông tin còn khá ít , mai mốt nếu có thêm mình sẽ update sau